Thánh Giuse Trần Văn Tuấn sinh sống bằng nghề nông, làm ruộng trồng lúa, chăm chỉ chu toàn bổn phận trong gia đình và sống trọn vẹn niềm tin của mình đối với Thiên Chúa và Giáo Hội. Công việc thường ngày của Ngài là sáng chiều chăm chỉ với công việc ngoài đồng. Nhưng không khi nào bỏ việc tham dự thánh lễ, chầu Thánh Thể và lần hạt Mân Côi sáng và tối dâng kính Đức Mẹ mỗi ngày. Gia đình Ngài sống rất bình dị, trong ấm ngoài êm, không ai chê trách gia đình Ngài điều gì, Ngài luôn đối xử với mọi người rất nhã nhặn thân ái hiền hoà, đối xử bằng tinh thần bác ái, khiêm nhu, yêu thương và hay giúp đỡ mọi người trong khu xóm, hay thăm viếng những người già yếu và bệnh tật. Ai ai cũng ca tụng gia đình Ngài có phúc và là một gia đình gương mẫu về lòng đạo hạnh. Vì vậy mà ai ai cũng tỏ lòng quí mến và kính phục Ngài.

Tuy nhiên trong thôn xóm cũng có một vài người thấy gia đình Ngài được nhiều người thương mến thì sinh lòng ghen ghét . Đàng khác cũng vì tham giầu có, nên nghe theo những lời hứa hẹn của vua quan là ai tố cáo các đạo trưởng và những người theo đạo thì được trọng thưởng vàng bạc. Do đó, trong làng có mấy người vốn đã có lòng ghen tị đã không ưa gia đình ông Giuse Tuân nên sinh lòng ham muốn có tiền bạc theo những lời hứa hẹn của vua quan, đã âm thầm đi tố cáo với quan đích danh làng Nam Điền có người tên Tuân theo đạo Gia-Tô. Được mật báo, quan tuần phủ đã ra lệnh cho quân về vây và bắt được ông Giuse Tuân. Ông chỉ là giáo dân, không bắt được đạo trưởng nào. Quan ra lệnh bắt trói giải về phủ giam giữ tra tấn, đánh đập Ngài rất tàn nhẫn, bắt đeo gông cùm, xiề ng xích rất nặng nề, không cho ăn uống, hành hạ Ngài bằng đủ mọi cực hình, bắt Ngài khai tên và chỗ ẩn trú của các đạo trưởng, bắt Ngài bước lên Thập Giá nhiều lần, nhưng dù bị tra tấn đánh bật máu, nát thịt thì Ngài vẫn kiên cường nhất định không khai báo và cũng không bước lên Thập Giá. Quan tức giận cho lệnh đánh ba mươi roi bật máu và dọa nạt. Vợ con và người dân làng chứng kiến trận đòn hãi hùng thì thương. Nhưng Ngài vẫn hiên ngang đối đáp. Sau trận đòn khủng khiếp, quan cho lệnh đưa về giam trong nhà tù và ra lệnh không cho ăn uống. Nhưng người tôi tớ Chúa vẫn vui vẻ và tỏ ra hăng hái, vững vàng trong đức tin sắt đá của mình.

Một hôm quan lại gọi Ngài ra công đường. Lần này quan tỏ lòng thương xót. Quan nói nhỏ nhẹ với Ngài:

– “Này ông Tuấn, ông chỉ là một người tín hữu của đạo Gia Tô. Ta biết ông là người hiền lành, được nhiều người dân làng thương mến. Ta không muốn kết án tử hình cho ông, vì ông còn trách nhiệm với vợ con. Vậy hãy nghe Ta, ông bước qua Thập Giá Ta đã đặt sẵn dưới đất trước mặt ông, rồi Ta tha cho về với vợ con”.

Ông khiêm tốn trả lời:

– “Bẩm quan lớn, quan lớn dạy tôi bước lên Thập Giá Chúa tôi thì tôi không thể làm theo lời quan lớn dạy được. Quan lớn thương cho tôi về với gia đình thì tôi muôn vàn đội ơn quan lớn. Nếu quan lớn kết tội thì tôi xin sẵn lòng chịu chết vì Chúa tôi thờ”.

Quan lại nhẹ nhàng nói:

– Chúa ông thờ là Chúa làm sao?

– Bẩm quan lớn. Chúa tôi thờ là Đấng dựng nên trời đất muôn vật, là Đấng cầm quyền sinh tử. Cha mẹ chúng ta sinh ra thân xác, nhưng linh hồn ta là Thiên Chúa dựng nên và ban cho ta. Khi ta chết thì xác chết nhưng linh hồn không chết. Linh hồn sống đời đời. Vì vậy, vua quan chỉ có thể giết chết thân xác tôi còn linh hồn tôi thì vua quan không thể giết chết được.

– Vậy ông chết rồi linh hồn ông đi đâu?

– Bẩm quan, tôi chết thì linh hồn tôi về với Chúa là Đấng đã dựng nên tôi. Tôi sẽ được hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa là Đấng tôi tôn thờ.

Nghe Ông nói thì quan tỏ ra vẻ suy nghĩ, không hỏi gì thêm. Quan ra lệnh đưa về ngục.

Sau ít ngày, quan lại cho dẫn Ngài tới công đường. Thấy Ngài bình tĩnh, quan vui vẻ hỏi:

– Ông Tuấn, ta không muốn kết án ông, nhưng theo lệnh của vua, mọi người phải từ bỏ tà đạo Gia Tô, vì là tà đạo, đạo của Tây đưa tới. Nếu không tuân lệnh vua thì phải chết. Vậy ông nghe ta mà từ bỏ tà đạo này để được tha mà trở về làm ăn vui vẻ với mọi người.

Ông Giuse Tuấn đáp lời:

– Bẩm quan lớn, quan lớn nói đạo Gia Tô là tà đạo, không phải như thế đâu. Đạo Gia Tô là đạo chân thật. Đạo thờ Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật. Thờ kính Đấng như thế thì làm sao gọi là tà đạo được?

Quan không muốn nghe ông nói thêm nữa. Quan tỏ ra nóng nảy, lấy làm khó chịu vì khuyên dụ mãi không được. Quan tỏ ra bực tức, thay đổi thái độ, bắt ép Ngài bước qua Thập Giá để chứng tỏ đã bỏ Đạo để quan tha cho về và trọng thưởng tiền bạc nữa. Khi quân lính đặt Thập Giá trên mặt đất và khuyên Ngài bước qua. Ngài đã khẳng khái từ chối, lại tỏ vẻ cương quyết qùi gối thờ lạy Thấp Giá và kêu lớn tiếng rằng:

– “Lạy Thánh Giá Chúa Kitô là sức mạnh của tôi”.

Quan quân chứng kiến hành động can đảm này của Ngài các quan thất vọng vì không thuyết phục được Ngài Quan nói:

– Ông này gan lỳ thật. Ông không sợ chết sao?

Lần cuối cùng, các quan lại cho lệnh dẫn Ngài ra công đường, các quan bàn định, nếu lần này không thuyết phục được thì sẽ làm án gửi về triều đình, vì đã giam giữ khá lâu rồi. Khi đội lính dẫn ra hầu toà. Quan chánh án hỏi:

– Chúng tôi đã kiên nhẫn chờ đợi ông suy nghĩ trước sau mà bỏ đạo Gia Tô, vì đạo này là tà đạo của Tây, vua đã cấm. Vậy hôm nay chúng tôi mong ông vâng lệnh vua và nghe lời khuyên của chúng tôi mà quá khoá. Chúng tôi sẽ tha và trọng thưởng vàng bạc cho ông nữa”.

Ông Giuse Tuấn trả lời dứt khoát rằng:

– Bẩm lạy các quan, tôi xin cám ơn các quan. Tôi xin sẵn lòng chịu chết chứ không thể bỏ đạo được. Được sống và được thưởng tiền bạc nữa thì quí trọng thật. Nhưng bỏ Chúa để lấy tiền bạc thì không bao giờ tôi làm. Tôi nhất định không bỏ đạo, nhất định không bước qua Thập Giá, dù phải chết thì tôi xin sẵn lòng chịu chết”.

Thấy không còn cách nào để dụ dỗ được nữa thì các quan bàn định làm bản án đệ trình triều đình xin vua xét xử. Vua ra lệnh làm án xử trảm tại pháp trường Nam Định.

Ngày 7 tháng Giêng năm 1862 dưới triều đại vua Tự Đức, Ngài đã hiên ngang tiến ra pháp trường với đội lý hình trong niềm hân hoan cảm tạ Chúa. Tới pháp trường, Ngài quì gối đọc kinh tạ ơn Chúa đã ban cho Ngài được phúc đổ máu mình ra để làm chứng cho Đức Kitô phục sinh, làm chứng cho lòng tin sắt đá của mình rồi Ngài kêu lớn tiếng: -“Lạy Chúa Giêsu ! Con phó linh hồn con trong tay Chúa”.

Sau đó, Ngài đưa cổ cho lý hình chém kèm theo tiếng chiêng tiếng trống đổ hồi vang dội. Lý hình vung gươm lên cao chém một nhát, đầu lìa cổ rơi xuống đất mà miệng vẫn còn phát ra tên cực trọng Giêsu, đoạn lý hình tung đầu Ngài lên cho quan Giám Sát và mọi người biết án lệnh trảm quyết đã được thi hành. Rất đông người đi theo chứng kiến cảnh hãi hùng. Khi lý hình vung gươm lên cao, nhiều người từ xa xa kêu rú lên, có tiếng kêu:

– Giêsu Maria, lạy Chúa tôi! Họ chém ông ấy rồi.

– Đầu bị chém lìa cổ rơi xuống đất rồi. Trời ơi ghê sợ quá!

Nhiều tiếng khóc nức nở :

– Họ tung đầu Ngài lên cao, trời đất ơi. Sợ quá!-

– Máu từ cổ vụt lên cao lắm. Trông kinh hãi qúa!

– Ông Tuân quả là anh hùng, dám chết một cách anh dũng vì đạo như thế. Anh hùng quá!

– Anh hùng chưa đủ, ông là thánh tử đạo đấy!

Nhiều lời bàn tán, kêu la lẫn lộn, tạo nên một khung cảnh ồn ào nhộn nhịp trong cảnh hãi hùng man rợ. Những người trong gia quyến và tín hữu vừa run sợ, vừa nức nở khóc, đã vội chạy tới thấm máu và xin nhận xác đem về an táng. Hôm đó là ngày 7 tháng Giêng năm 1862 Ngài vừa tròn 36 tuổi Ông Phêrô Kiên và bà Maria Huyên đã có mặt ngay từ giây phút đầu, để chứng kiến cái chết.tử vì đạo vô cùng anh dũng và thánh thiêng của thánh Giuse Tuân. Hai người này đã xin phép lãnh nhận thi hài vị chứng nhân can trường của Chúa về an táng. Đến năm 1864 giáo dân xứ Nam Điền lại xin cải táng rước về đặt tại nhà thờ thánh Giuse thuộc giáo xứ Nam Điền, nơi sinh quán của Ngài..

Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong Ngài lên bậc Chân Phước ngày 29 tháng 4 năm 1951 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn vinh Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988.

Lạy thánh Giuse Tuân là giáo dân xú Nam Điền, Xin cầu cho chúng con!